Vốn dòng Trần Thị quê hương non ngàn
Hữu Lũng giang là nơi cát địa
Chín Tư ngàn tú khí là nơi
Chúa Tiên vâng lệnh y lời
Ở trong bệ ngọc, ra ngoài màn loan
Đêm ấy xuống trần gian báo mộng
Trần thị nưong tâm động bào thai
Tháng năm giờ tý mồng mười
Sinh ra Chúa Lục khác người trần gian
Đôi thung huyên vui mừng hớn hở
Khắp bản làng mừng rỡ bảo nhau
Mới hay như ý sở cầu
Sớm nâng niu ngọc, ngày chau chuốt vàng
Chốn phòng loan đêm ngày dưỡng dục
Đặt tên là Chầu Lục Cung Nương
Ơn trời sao khéo phi phương
Mặt huê hớn hở ,tính gương làu làu
Vẹn một bầu nước trong leo lẻo
Trách ông trăng già sao khéo vẩn vơ
Vô tình ép uổng duyên tơ
Hoa chưa kết nhụy trăng chưa tới kì
Hoá tức thì đôi mươi tháng chín
Giữa thu về xa lánh hồn nương
Thung huyên buồn sầu thảm nhớ thuơng
Sót xa tấc dạ ruột thường quặn đau
Trải bấy lâu thiên đình sai xuống
Nay đến ngày ,mãn hạn về tiên
Nỗi lòng thưong nhớ thung huyên
Dấu thiêng hiển tích trong miền Chín Tư
Tục truyền lưu để ngàn thu
Nhân dân thôn ấp còn thù giặc nguyên
Xuân sang mở hội đua thuyền
Nam thanh nữ tú cùng nhau đua tài
Bất thường một sớm hôm mai
Chầu lên đỉnh núi hoá thân tức thì
Sắc ban phong vang lừng tám cõi
Tiếng chầu ngàn chói lọi trời nam
Trong đền tấp nập sửa sang
Lối lên Sông Hoá lại càng thanh tao
Vào năm Kỷ Mão anh hào
Có Tiên Chúa Lục giáng vào thiên thai
Trên núi Thái bốn mùa mát mẻ
Dưới bản làng vượn hót oanh ca
Nhớ xưa họ Quách lương gia
Nhân từ có một hiền hòa không hai
Vừa gặp buổi trang đài hội yến
Chầu Lục vào dâng tiến kim bôi
Trống rung chưa kịp dứt hồi
Bỗng đâu Chầu Lục sảy rơi chén vàng
Trên chín bệ Vua cha phật ý
Nổi lôi đình truyền chỉ chiếu ban
Kíp đầy Chầu xuống trần gian
Mười lăm năm lẻ khải hoàn hồi cung
Nhà họ Quách vốn dòng quốc chỉ
Kết duyên lành Trần Thị Hồng Mai
Vào năm kỷ mão tháng hai
Ngày Mão giờ Mão Trang đài nở hoa
Vẻ cốt cách da ngà tựa tuyết
Bóng trăng tròn mặt nguyệt như in
Mày ngài mắt phượng tóc tiên
Môi son má phấn lại thêm nõn nà