Bài hát : Chấp Niệm - Hứa Đa Quỳ
昨夜归梦圆 执手两共欢
梦醒依稀前生缘
黄泉路 三途川 奈何桥畔 数流年
故人还何需旧时颜
复生一念几人离合悲欢
双越鸣尽凤血还恩缘
死亦何憾 唯心不甘
终不过 执念难断
Zuóyè guī mèng yuán zhí shǒu liǎng gòng huān
mèng xǐng yīxī qián shēng yuán
huángquánlù sān tú chuānnài hé qiáo pàn shù liúnián
gùrén hái hé xū jiùshí yán
fùshēng yīniàn jǐ rén líhé bēi huān
shuāng yuè míng jǐn fèng xuè hái ēn yuán
sǐ yì hé hàn wéixīn bùgān
zhōng bùguò zhí niàn nán duàn
Đêm qua về mộng đoàn viên, nắm tay cùng vui sướng
Mộng tỉnh mơ màng kiếp tiền duyên
Đường suối vàng, dòng Tam Đồ* bên cầu Nại Hà* đếm tháng năm
Dung mạo cố nhân nào như xưa nữa?
Một ý nghĩ phục sinh, mấy người buồn vui ly hợp?
Chim Song Việt ca hết, máu phượng còn nối nhân duyên
Dẫu chết chẳng hối, chỉ lòng không cam
Cuối cùng chẳng qua là cố chấp khó mà đoạn tuyệt
今夕别梦残 凌乱旧衣衫
梦醒依稀前世缘
黄泉路 三途川 奈何桥畔 不成眠
七百年 残魂半孤寒
复生一念几人离合悲欢
束月恨怨谁人可堪解
经年思恋 见如不见
终不过 执念千年
Jīnxī bié mèng cán língluàn jiù yīshān
mèng xǐng yīxī qiánshì yuán
huángquánlù sān tú chuānnài hé qiáo pàn bù chéngmián
qībǎi nián cán hún bàn gū hán
fùshēng yīniàn jǐ rén líhé bēi huān
shù yuè hèn yuàn shéi rén kě kān jiě
jīng nián sīliàn jiàn rú bùjiàn
zhōng bùguò zhí niàn qiānnián
Đêm nay tạm biệt mộng tàn, y phục xưa ngổn ngáng
Mộng tỉnh mơ màng duyên đời trước
Đường suối vàng, dòng Tam Đồ bên cầu Nại Hà không chìm vào giấc ngủ
Bảy trăm năm, tàn hồn cô đơn lạnh lẽo
Một ý nghĩ phục sinh, mấy người buồn vui ly hợp?
Trói buộc trăng tà, lòng hận oán ai người lý giải?
Vấn vương đằng đẵng, thấy mà như chẳng gặp
Cuối cùng chẳng qua là cố chấp ngàn năm
轮回宿命连 前生前世缘
封神台上惊天变
魍魉台 碧海边 优钵花开 天诛现
再回首 沧海已桑田
复生一念几人离合悲欢
双越情深翻覆三界限
束月阑珊 花开彼岸
终不过 执念难断
终不过 执念千年
Lúnhuí sùmìng lián qián shēng qiánshì yuán
fēng shén tái shàng jīngtiān biàn
wǎng liǎng tái bìhǎi biān yōu bō huā kāi tiān zhū xiàn
zàihuíshǒu cānghǎi yǐ sāngtián
fùshēng yīniàn jǐ rén líhé bēi huān
shuāng yuè qíng shēn fānfù sān jièxiàn
shù yuè lánshān huā kāi bǐ’àn
zhōng bùguò zhí niàn nán duàn
zhōng bùguò zhí niàn qiānnián
Số mệnh luân hồi cùng duyên đời này kiếp trước
Trên Phong Thần đài*, sự biến kinh thiên động địa
Đài Võng Lượng* bên bờ Bích Hải*, hoa Ưu Bát* nở rộ hiện Thiên Tru*
Quay đầu nhìn lại, bãi bể đã hóa nương dâu
Một ý nghĩ phục sinh, mấy người buồn vui ly hợp?
Nghĩa tình Song Việt lật đổ giới hạn Tam Giới*
Trói trăng leo lét, Bỉ Ngạn* nở hoa
Cuối cùng chẳng qua là cố chấp khó mà đoạn tuyệt
Cuối cùng chẳng qua là cố chấp ngàn năm
*Chú thích:
1) sông Tam Đồ: ranh giới giữa bờ bên này (kiếp này) và bờ bên kia (kiếp sau), một khái niệm Phật giáo được dân gian dung hợp
2) cầu Nại Hà: cây cầu mọi linh hồn trước khi đầu thai phải đi qua để rơi vào cõi luân hồi
3) đài Phong Thần: sau khi Chu Văn Vương, Chu Vũ Vương diệt trụ lập nên nhà Chu, theo truyền thuyết và cuốn “Phong Thần diễn nghĩa” thì các công thần như Khương Tử Nha, Lý Tịnh (tức Thác Tháp Thiên vương), Na Tra, Dương Tiễn (tức Nhị Lang Thần), Lôi Chấn Tử, v.v... đều được Thiên giới phong thần trên Phong Thần đài, trở thành thần tiên.
4) Võng Lượng (còn có nghĩa là quỷ mỵ), xuất phát từ điển tích Hoàng Đế đánh bại Xi Vưu. Các anh em kết nghĩa của Xi Vưu có tám người, Võng và Lượng là 2 trong số đó
5) Bích Hải: vùng biển xanh trong truyền thuyết, gặp trong “Hải nội thập châu kí” (kí sự mười châu trong biển), “Đăng châu hải thị” của Tô Thức đời Tống và “Động tiên ca- Tứ châu Trung Thu tác” (bài ca động tiên – Tứ châu làm trong tiết Trung Thu) của Triều Bổ Chi đời Tống.
6) Hoa Ưu Bát: (tên gốc là hoa Ưu Bát La): khi khổ hạnh tu tập đã trở thành hoa sen xanh thanh khiết, ý nói người chân thành, nghiêm cẩn học đạo sẽ thành chính quả
7) Thiên Tru: nghĩa là trời tru, cái này mình thật sự chưa rõ là gì :((
8) Tam giới: ba thế giới, là ba cõi của Vòng sinh tử, là nơi mà loài Hữu tình tái sinh trong theo hướng Lục đạo. Khái niệm Tam giới này có thể hiểu là Vũ trụ quan của đạo Phật. Tam giới bao gồm: dục giới, sắc giới và vô sắc giới
9) Hoa Bỉ Ngạn: loài hoa mọc ven bờ suối vàng, dẫn linh hồn người chết đi đúng hướng để tới Âm Ty