Trời thanh lặng gió đưa hiu-hắc,
Ngồi thơ phòng thân bắt lạnh lùng.
Gẫm xác trần còn cách cội thung,
Đâu có được giũ mùng quạt gió.
Cơn mừng vui nào ngờ lũ ó,
Vội bay ngang rồi xớt đi luôn.
Chữ ngậm-ngùi lụy ngọc ứa tuôn,
Nào phải giống chim muông điểu-thú.
Lìa quê-hương quên câu nghĩa cũ,
Bởi xác phàm hấp thụ đã lâu.
Cuộc lung-tung rối-rắm trời Âu,
Nên còn ngại bước đường trở gót.
Tiếng riêng than tai nghe thảnh-thót,
Trăm ngàn nhà bổn-đạo ước mơ.
Con lạc cha con hỡi u-ơ,
Thầy xa tớ ngẩn-ngơ thương mến.
Ngóng trông chờ vận-thời đưa đến,
Đặng chung cùng môt tiệc quỳnh-tương.
Cây ngô-đồng hứng vẻ đượm sương,
Cho chim phụng mặc tình sè múa.
Cảnh sum-vầy mây lành bay tủa,
Cả trời Nam lưới bủa thiên-la.
Chữ Thánh Hiền mới được nôm-na,
Ta thỏa chí hô-hào trung nghĩa.
Giống hiền xưa bây giờ mới tỉa,
Dốc chờ ngày bông trổ thơm tho.
Tuy ngày nay chưa được ấm no,
Sau được dựa nơi non nhược thủy.
Đây trưng bày khuyên gìn cang-kỷ,
Đờn những câu tỉ-mỉ rung hồn.
Cho người lành dạ ái bắt nôn,
Cúi đầu trước qui-y Phật-Pháp.
Quản chi thân bị mưa, nắng táp,
Nơi sang giàu ấm-áp mặc ai.
Vẽ cho dân lập chí râu mày,
Phá tan óc tinh-thần nhu-nhược.
Thân nặng-nề như chim ô-thước,
Quyết làm xong cầu đá sông Ngân.
Nên chẳng màng báu ngọc châu trân,
Miễn con thảo nhuần ân Thánh-Đế.
Đứng anh hùng dựng nên thời-thế,
Sá chi loài trùn dế nhỏ-nhen.
Vội đem lòng cượng lý ghét-ghen,
Thêm cùng bớt tiếng kèn lời huyễn.
Chốn âm-ty ngưu đầu, mã diện,
Đang trông ngày tới số bắt hồn.
Cõi âm thần bịnh sái dịch ôn,
Chờ mãn phước ra tay bẻ họng.
Cửa Tiên-bang hãy còn khóa cổng,
Nhà cha xưa cửa đóng then gài.
Con nào hiền thì vẹn thảo ngay,
Đứa ngỗ-nghịch một mai đứt cổ.
Nhìn gương kiếng sao không biết hổ,
Lũ gian thần nào biết Tổ Tông.
Làm âu-sầu một góc trời Đông,
Bị miệng sói thổi lông tìm vít.
Văn cang-thường đem ra bày trích,
Vạch chỉ lời cổ tích người xưa.
Nghĩ vì đâu có cuộc giày bừa,
Cho lăn-lóc những người mới tỉnh.
Phải chi Phật lấy ngay bình tịnh,
Rưới cho trần được tỉnh chút tâm.
Mãi để câu vi diệu thậm thâm,
Cho sanh-chúng rừng lâm khó mở.
Được gió nhẹ ngờ đâu dễ thở,
Bỗng dông luồng âm khí nặng-nề.
Phải ngóng chờ cho phụng gặp kê,
Ấy thời đại Thánh Tiên trổ mặt.
Càng nhìn dân lòng tơ siết chặt,
Đau chi bằng đau khúc đoạn trường.
Ước sao mà thuận gió buồm trương,
Đò bát-nhã rước tôi lương đống.
Ngày vui tươi cũng đà lố bóng,
Cớ sao đời còn mãi say-sưa?
Không tìm Thầy đặng hưởng phước thừa,
Ngày lập Hội tay vin nhành quế.
Trau thân phận rạng danh hiếu đễ,
Thỏa dạ Thầy nơi chồn mây rồng.
Đừng chi lìa Bắc tổ Nam tông,
Chỉ biết giống Lạc-Hồng Thượng-cổ.
Tai nghe chi những câu ái ố,
Lòng từ-bi chớ cố lời gièm.
Đạo hiểu rồi ngon tợ gỏi nem,
Tuy cõi thế lấm-lem trần-tục.
Mây ganh hờn đầy lòng nghi-ngút,
Giữ dạ trong đừng đục mới mầu.
Thân bần tăng mặc bộ sồng nâu,
Cuộc thiên-lý một bầu đều hãn.
Đến kỳ thi danh Thầy chạm bảng,
Trên đài cao gọi các linh hồn.
Nay ngu khờ len-lỏi hương-thôn,
Sau đắc Đạo tiếng đồn bốn biển.
Giảng với sấm ra tài sửa kiểng,
Kệ cùng ca lựa tuyển con lành.
Tuy là Ta không thể sanh thành,
Nhưng thương hết ra tài dạy-dỗ.
Đời phải biết suy kim nghiệm cổ,
Thông cơ-đồ dựng nghiệp Thánh Hiền.
Ta quyết lòng rứt nợ oan-khiên,
Cứu bá-tánh khỏi nơi lao-khổ.
Gà lôi sớm mượn oai tố-hộ,
Có một ngày rớt lốt hổ-hang.
Nhu hiền hòa nhược ắt thắng cang,
Đời cùng đạo bi hoan, ly hiệp.
Tấm lòng thành gian-truân chớ khiếp,
Đức từ-bi tiếp-dẫn linh-hồn.
Nén hương nguyền cầu với Phật-Tôn,
Ban phước-huệ cứu nàn dương-thế.
Nhớ thuở