当闹钟叮铃铃叫他起床 我背着行囊早已到了车站
dāng nào zhōng dīng líng líng jiào tā qǐ chuáng wǒ bèi zhe háng náng zǎo yǐ dào le chē zhàn
Khi chuông đồng hồ reo lên đánh thức cha dậy, thì con vai mang balô và đã đến sân ga
当他看到我留下的纸条 火车已快要离开北方
dāng tā kàn dào wǒ liú xià de zhǐ tiáo huǒ chē yǐ kuài yào lí kāi běi fāng
Và khi cha nhìn thấy tờ giấy con để lại thì con tàu đã khởi hành đi xa...
他还会像往常准时上班 猜想我不到晚上就会回家
tā hái huì xiàng wǎng cháng zhǔn shí shàng bān cāi xiǎng wǒ bú dào wǎn shàng jiù huì huí jiā
... cha vẫn đi làm như thường ngày, và cha luôn nghĩ rằng dù con có đi đâu thì đến khi trời tối cũng sẽ trở về nhà mà thôi
午餐时他试着打个电话 家里当然是无人应答
wǔ cān shí tā shì zhe dǎ gè diàn huà jiā lǐ dāng rán shì wú rén yīng dá
Vào buổi cơm trưa, cha đã thử gọi điện về nhà, và đương nhiên chẳng có ai ở nhà để nghe
我曾说过很多次我的想法但他总是忽视的笑而不答
wǒ céng shuō guò hěn duō cì wǒ de xiǎng fǎ dàn tā zǒng shì hū shì de xiào ér bú dá
Con đã từng nói với cha biết bao nhiêu lần về những gì con nghĩ nhưng cha thì lúc nào cũng cười và chẳng hề nói hay trả lời con bao giờ
在少年的梦想里天高地大 吃点苦我从来不怕
zài shao nián de mèng xiǎng lǐ tiān gāo dì dà chī diǎn kǔ wǒ cóng lái bú pà
Trong ước mơ của tuổi trẻ, con luôn nghĩ rằng mình cần và muốn đi khám phá những khoảng trời bao la ở ngoài kia, và nếu như phải chịu khổ thì con nghĩ chẳng có gì phải sợ, chẳng có gì lớn lao cả vì con chấp nhận như thế
开了灯客厅里空无一人 他会坐在饭桌前耐心地等 入睡前落下泪唤我的名字 终于明白我已经离开
kāi le dēng kè tīng lǐ kōng wú yī rén tā huì zuò zài fàn zhuō qián nài xīn dì děng rù shuì qián luò xià lèi huàn wǒ de míng zì zhōng yú míng bái wǒ yǐ jīng lí kāi
Cha về mở đèn và trong nhà chẳng có một bóng người, cha ngồi trước bàn cơm và nhẫn nại chờ con về. Trước khi đi ngủ bỗng giọt nước mắt cha rơi, luôn miệng gọi tên con, và bây giờ thì cha đã biết con đã thực sự ra đi
离家的那年我不到十八 从没有顾忌过他的想法 当我有了勇气再回到家 只见他已是满头白发
lí jiā de nà ni