Các bạn thân mến,trong chương trình đọc chuyện đêm khuya của Đài Tiếng Đói Việt Nam hôm nay,chúng tôi giới thiệu với các bạn chuyện ngắnGió Đắng Sân Chùacủa tác giả Phan Đình Minh.Mời các bạn theo dõi qua giọng đọcnghệ sĩ ưu tú Hoàng Yến.Năm nay các con có về quê ăn Tết không?Cha tôi bịn rịn vừa nói vừa kéo rễ cánh cổng chùa.Có chứ ạ,chúng con không về quê thì đi đâu ạ?Thì đi đâu ạ?Thì cha hỏi vậy.Trời nổi rông đó đi đường chui hết cái xe ô tô to.Lần nào về quê lúc đi,cha cũng dặn hai vợ chồng tôi cẩn thận cái xe ô tô chở container.Ăn Tết ở quê vừa là trách nhiệm,sau là niềm vui lớn nhất trong năm mà tôi thườngKhoe với mọi người trong khu tập thể.Nói không cường điệu.Giờ ngôi làng của tôi tựa như một cục xim mang mất rồi.Không còn nhiều tre,còn con sông nhỏ bao bọc tuổi thơ nhột mình tét nhảy,Tuốt quả ruối chín vàng vờn mặt nước để ăn.Về quê những ngày cuối năm,với tôi,chỉ là các chiều tảo mộ, tạo mộ,thăm bà con xóm giềng,và được cha cho rửa tay bằng nước thơm trong chiếc chậu đồng trước khi vào tháp hương ở chùa làng.Ngôi chùa cha tôi làm bỏ trong non đã được hơn hai chục năm,từ khi tôi chưa về nhà.Mà thực ra chùa đã là nhà của ông từ lâu rồi,ai muốn tìm cha thì cứ việc ra chùa.Sân chùa vắng vẻ,diễn chùa lập lờ bóng mây trắng suốt bồng bành trôi từ đông sang tây.Câu chuyện ông Sưỡng kể còn cào tôi sau đó một năm.Cháng niên,cha cậu ngang tàng phóng túng có tiếng đấy.Tôi phì cười,ngang tàng.Trên,ông ấy sợ ông nội cậu.Dưới,sợ mỗi thằng đớt quý tử.Nói vậy,rồi ông Dưỡng ngó tôi chăm chăm,tôi gật đầu có ý bảo.Cháu biết mình là con nuôi rồi còn gì.Giọng ông Dưỡng vẫn đều đều.Chuyện nhà cha nuôi gần gợn trong cái đầu non nớt của tôi.Súng cối từ bốt cái cầm ràng đùng đồng nã về cầu bát.Cầu Bát là an toàn khu du kích.Bỗng pháo chuyển làn.Dân kinh nguyên núc này không còn ai ở làng để chứng kiến cảnh chùa làng bị đổ.Nhà tôi trong đám người đang chạy càn tận bên cầm đoài.Nửa tháng sau ngớt càn,mọi người mới lục tục trở về.Không ai là không bàng hoàng trước cảnh đổ nát điêu tàn của ngôi chùa đã gắn bó với làng mấy trăm năm.Chùa đổ.Vậy mà không hiểu sao,chẳng có ai ra xếp nép hay thu quén gì cả.Đống gạch ngói gỗ lạt bừa bãi cứ nguyên trạng suốt cả năm trời.Một ngày trong đống phế tích,ló ra chiếc chậu đồng hình thù giống chiếc mũ cát rộng vành.Chiếc chậu nặng trịch,gò thủ công,chứ không đúc bằng khuôn,có từ đời nào?Có từ đời nào.Xưa nhà chùa dùng nó vào việc gì,không ai biết.Chiếc chậu gội mưa nắng và chịu đất cát ngượm màu xìn xịt.Anh ra chùa lấy chiếc chậu về cho tôi.Ông nội tôi bảo với cha tôi thế.Cha ra chùa móc máy đến sứt cả tay chân mới mang được chiếc chậu về nhà.Thế đến nhà ông nội lại sai cha mang ra cầu ao,dùng cho bếp đánh đi đánh lại cho thật bóng.Cha mỏi giã tay,mặt mũi nhăn nhó.Còn ông nội thì sõng lưng xăm xoi và cứ xoa xoa vào thành chiếc chậu đồng miệng lụng bỗng không thành tiếng, chưa được.Mỗi lần vậy,cha lại xầm xì.Cuối cùng mai cho đến hết buổi chiều,chiếc chậu đồng cũng bóng lì lên nước.Ông Dưỡng không hề khách xáo.Tôi thì cứ sán mắt vào cái miệng hòn hon chỉ có ba chiếc xăng cửa của ông lão cao niên nhất làng.Đều ông tiếng ve.Nhà cậu nghe đã quen tai.Cái tính cương cương,không chịu ai của bố ông Hoánlàm câu chuyện trước chậu đồng càng thêm khó chịu,thành chùa đề đàm tiếu cả chục năm trời.Chùa làng tôi được phục chế ngay trên nền đất cũbằng tiền bà con quyên góp.Mấy người ra ngoài khá già cũng gửi về.Chùa thiết kế đổ tam,gian, ngũ mái,có cả dãy nhà ngang,không tường,trống hoang, trống hóa.Khi khánh thành,việc đầu tiên là làng đòi tắp lựa trước chậu nhà tôi.Lúc này ông nội tôi đã mất,cha tôi nóng nảy lươn tiếng,đói chậu,làm nhục nhà ông thì có,ông thách đấy.Làng này không bằng...Tính chửi của cha ồm ồm,váng nửa làng.Mẹ tôi và anh đất sợ run ôm nhau ngồi dịp trong buồn.Dân làng chẳng ai có máu mặt đối lời trực diện với cha tôi.Trời chán,cha tôi lại nghe.Mãi rồi cũng mệt, phải thôi.Sau này mỗi lúc vui vui,có ai nhắc chuyện trước chậu là cha tôi bay biến.Đây là thứ ông cha đào được ngoài bãi vấu.Có lần cha tôi còn nhận mình cất công sang tận làng đồng Lý Đông,Lý Đỏ Go.Dân làng nản bảo nhau,đòi gắt,lão lãi chửi cho như bận trước mà xem.Tháng ngày nhàng trôi,khi anh đất năm tuổi trông hợp mặt như cái bồng sen.Một đêm cha tôi không ngủ,bực dọc trong người ông dân đêm cuồn cuộn.cuộn cuộn.Cha như con trâu điên lao ra ngoài sân rồi lại lao vào trong nhà.Ông còn ra tận mắm,ruồi,đấm ngực chửi thề,khiến mọi người đi đường cái nhìn phát gai cả người.Nguyên nhân cũng mời hàng tháng nay,ông nghe được lời cạnh khoé.Thằng đớt á,trông không giống ông.Quan trọng là trong đầu cha nghĩKhi mới về nhà,bà ấy thường xin đi bỏ hấm,mà có đận cả tuần ở bên ngoài không về.Không có lửa,sao lại có khói được?Cha vẫn đi ngang, đi dọc.Cha xông ao và trong buồn.Mẹ tôi thì đang củng cực trong sự đau khổ và sợ hãi.Bà cứ ôm diệt chiếc chăn chiên vào ngực,rồi nét sát vào góc tường.Cha nhảy một bước lên giữa giường,thượng càng chân hạ càng tay,đấm đá mẹ liên hồi kỳ trận.Tôi thoát sở người,dựa mình vào vai ông Dưỡng.Ông Dưỡng hạ giọng.Từ bệnh viện trở về,cha cậu tự dưng thuần tính lại,kiệm lời cả ngày không nói câu nào.Câu nào?Nhà cậu bớt xảy ra những trận đấm đạpvà không còn nghe tiếng cha cậu chửi bới hàng xóm láng giềng nữa.Lời đàm tiếu của dân làng cằn cục đi rồi cằn cục lại.Do thay máu nên em còn cho vá trong người ông hoãn chết.Thay máumà khiến chữ thiện rõ rệt rathì thời nay khối kẻ.Thứ hai cách lần trước bốn năm.Tôi nằm nỉ mãi,ông Dưỡng mới kể tiếp chuyện nhà cho nghe.Lần này tôi đã mang nha cuộc sống gia đình mình trước kia.Những lời ông Dưỡng như làn gió mỏng heo hắt len lỏi vào cơ thể,*** dứt tận tâm can tôi.Nghề làm bánh đúc nhà tôi dần dần xa suốt.Anh đớt lớn lên,chày trụa mãi mới tuốt nghiệp được cấp 2.mà cũng yếu sức không đi nghĩa vụ quân sự được.Thấy anh chơi bời vô bộ,lại còn tất cảnh cờ bạc nữa,cha bảoMuốn khá thì đi buôn,chứ đừng học thói đánh bạc,mà cũng đừng tập nhòm đít con trâu.Nói xong,ông gọi anh vào buồn,đặt vào tay anh hai khâu vàng.Đây là hai đồng cân,mày cầm lấy mà đi buôn.Không biết ai nghe ai xuý,mà anh Đớt lại xoay sang nghề gom mèo trong làng trong xã,bán cho nhà hàng tiểu hồ trên thành phố.Không có mèo thì ất xinh lắm chuột,dạo ấy chuột sao mà nhiều.Dân làng cáu giận,thằng Đớt là mầm mống nạn chuột bọ trong làng nở rộ.Chuột đầy đông,chuột cắn tã tười hàng mẫu lúa,phá hủy nửa cánh đồng dư hấu.Nhà nhà bẫy chuột.Cha tôi là người bẫy giỏi nhất.Ông chế hàng loạt chiếc bẫy chuột bằng tre,trên chèn một hòn đá hay hai viên gạch chỉ,dưới để cái càng cua nướng.Chuột mò và ăn,hòn đá, viên gạch ập xuống,chuột to đến đâu cũng bị nát đầu.Có đêm cha tôi diệt được cả chục công.Anh đất gây nạn chuột tràn lan.Cha tôi là người diệt chuột giỏi nhất làng.Kiếm công điểm gấp mấy chục nhà cộng lại.Nhà tôi lần nữa lại là tâm điểm gẻ lạnh của dân làng Kinh Uyên.Một chiều trạng vãng,cuối làng phơ vớt dặn che buồn thiêu.Mé đường tàu sau làng bỗng cồn lên.Mấy chục người hầm hầm xoát khí,tay gậy tay dao,sùng sục đi về phía chùa làng.Dân làng Kinh Yên nhao ra xem có chuyện gì.Đám đông làng Tú La đến gần,thì mọi người thấy họ đang dẫn dài một thanh niên bị chói giặt cánh khuều,mặt mũi xưng vồ không còn nhận ra.Nhìn kỹ không ai khác,chính là anh Đớt tôi.Anh Đớt sang làng Tú La lấy trộm đường dây điện đèn,bị Tú La bắt quả tang.Dân làng dện anh lên bờ súng ruộng.Đến khi mọi người không còn muốn đánh nữa,thì hô hoán,rong anh về trả kinh uyên.mà lại sao tại sân chùa mới quái oan chứ.Anh đớt tôi bị trói đứng,run dày,rạc dài như con cỏ bợ,khiến mọi người không ai muốn nhìn.Hôm tỏa sử án,cha tôi không ló mặt,mẹ cực chẳng đã bước ra với thân hình nhũng nhẹo,nước mắt cạn đạch dòng.Anh đớt đi tù hai năm,Nhà tui tuột dốc như mít rụng đầu hẻ.Cha tui buồn,thường ra mòm rùi thu luồng ngẫm ngợi.Rông kéo về đầy trời,khiến ra mặt cha tê trong gió vờn mà vẫn không hay.Chỉ khi mẹ chạy ra đập vào vai,cha mấy giật mình thất hều về nhà.Mùa đông năm ấy như dài thêm.dài thêm.Ông Dưỡng dơ tay xoa xoa vào thành chiếc chậu đồng kể tiếp.Đi tù về nhà,thằng Đớt vẫn sặc sặc xoãi mình trong thói trời bời cờ bạc.Quá mù sang mưa,đến đận thằng Đớt lấy cắt năm đồng cân vàng,giấu trên lỗ đòn tay nhà.Ông Hoán mới ấm ấm nổiĐánh chán,ông Hoán tuốt mấy sợi lạc sang trên gác bếp,chói hô thẳng đớt như chói chó,rồi vác ra mòm rùi.Đang kỷ xà nước đập bát thủy,nước nồi cồn ẩn ẩn vào chân rùi,quẫy ngang thành vệt trắng bọt.Ông Hoán đứng chọn chân,lấy đà,quăng thang lang một cái.Thằng Đấtchìn mất dạng.Ông Hoán quay lưng mà không còn nghe thấy tính tòm thứ hai là bà Hoán dù không biết lỗi xong vẫn lén lén lao xuống cứu con.Ông Hoãn bỏ về nhà thu lua ngồi hút thuốc lào.Bà Hoãn hoàng hồn cuốn cuồng nhấp nhô mãi,cuối cùng cũng kéo được thằng Đất vào bờ.Khi ghét được cái đầu nó lên cạnh phía đá,thì bà đuối sức quá,cố gưỡng không được,bà đành buông tay.buông tay.Lời ông dưỡng tựa mưa đông nặng hạt.Ông kể chuyện nhà tôi bằng xúc động dâng tận đáy lòng,chứ không chỉ bằng lời nói phát ra từ cái miệng nhóm nha nhóm nhém.Nhà tôi đứt mạch nghề làm bánh đúc.Cha tôi ở lì trong vùng và đóng cửa suốt tháng.Ai quan tâm ngó vàolà bắt gặp ông lù lù dính người trên cáiBên cạnh có chai rượu ngang đục lờ nước gạo.Ba bốn hôm liền mới trẻo chảo cây bắp ngô.Nhà này á,còn rậu đồ bìm leo.Cha cam lòng cúi mặt ướp buồn trong lời đàm tiếu của dân làng.Nhìn khuôn mặt phết sáp của cha tôi lúc ấy,tôi không còn nhận ra được nữa.Chiều vẫn đi dọc ngõ,hoa *** bột thì cố đỏ nhiệu ngoài cổng nhà,càng làm nỗi buồn cha tím thẫm.Cha chầm tính,giờ lại càng chầm hơn khi mẹ mất rồi.Anh đớt tôi thì coi cuộc đời không còn gì để bấu viếu nữa.Anh theo con nhà thập lên đào vàng trên biển động Bắc Giang,rồi không hiểu thế nào,anh đi được xuất khẩu lao động ở tận bên Đức.Được hai năm trở về,chỉ có lưng mà không vốn.Phờ phạc chơi bời một thời gian đẩy,anh lại đi tiếp.Lần này thì không quay về nữa.Nghe đồn anh sống lưu vong và than xa vào một băng cướp,rồi bị giết chết trong lần chia trác không sòng phẳng.Dẫu biết cuộc đời là biển cả,đâu thể tránh phong ba.Nhưng cha tôi không sao lý dài,nghiệt ngã,cứ ấp vào mình nhiều vậy.Ông cô độc chẳng thể rãi lòng cùng ai,và lạ lùng không ai thấy cha tôi rơi một giọt nước mắtkhi hay tin anh đớt chết.Người tò mò cố nhòm vào trong nhà xem cha tôi ra sao.Tuyệt nhiên không nhìn thấy bóng ông đâu.Mãi tối khuya mới bắt gặp vật vờ lúc đi lúc đứng.Chuyện nhà tôi khiến không khí trong làng căng tựa dây đàn.Cha cứ vột mặt vào cái chậu đồng ngày xưa nhúng bánh đúc.Lâu lắm,ông ấy ngẩn lên,úa úa, thất thần.Tiếng kêu xáo hoành ai oán như tiếng vạc đêm.hay nước mắt cha vẫn âm thầm chảy khô lòng trước chậu đông.Trạng thái này diễn ra suốt cả tháng,làm thân hình cha tiểu tụy như cây ngô ngoài đồng hết bắp.Sáng,tối,cứ thấy ông giật giờ,mơ mơ, tỉnh tỉnh,không còn khái niệm gì về thời gian.Ông phải dạy,vẫn phải sống.Có ếch tạm là nơi người ta trả.Namo Azi Da PhậtSư thầy Huyền Thông hay tin cha tôi suy sụp không đặng.Liền về chùa Kinh Yên ở cả tháng trời.Ngày sư thầy kinh kệ,tối lại vào trong nhà thổ rụ,cố gỡ khổ đau đang đóng băng trong con người cha.con người cha.Không biết sư thầy khai đạo ra sao,mà sau khi sư thầy về cầm la,thì cha tôi nhắc nhách xin làng cho ra chùa làm công việc quét dọn và nhan khói.Trước chậu đồng không cần làng đòi,ông Hoán tự giác mang ra chùa đựng nước lau rửa hoa quả.Dân làng cũng không ai còn nhắc chuyện riêng nhà anh trong các buổi cỗ bàn nữa.Câu chuyện nhà tôi,ông dưỡng kể cho tôi nghe mấy năm mới hếtmà lần nào cũng ở tại sân chùa làng.Thời gian như cối giã thoi đưa,ngọn gió mở cửa cuối cùng cũng lay độngcái làng cỏ trắng kinh uyên.Con nhà Thới là thằng Vuông trên phố,là đứa ra ngoài khá nhất.Về quê thằng Vuông đánh tiếng xin hiến chùa làng một pho tượng quan âm đúc bằng đá cầm thạch.Làng họp,một nửa số người đồng ý,còn một nửa lại không đồng ý.Bạn đi tính lại chán,cuối cùng dân làng nhất trí sẽ cử người sang cầm la xin ý kiến sư thầy huyền thông.Kỳ lạ,sư thầy Huyền Thông đồng ý ngay,không hề cân nhắc.Tưởng đến đó thì thông đồng bén giọt.Tâm trạng dân làng càng nặng chữa hơn.Trong khi đấy,Thẳng Vương cứ rồn dập báo tin là ở trên ấy nó đã đặt tiền đúc tượng.Cuối cùng dân làng đành phè bằng lòng.đành phè bằng lòng.Lúc Hô Thần nhập tượng,già trẻ phải ra làm lễ đến ba ngày liền.Khi mọi thủ tục xong xuôi,Thầng Vuông bèn sai mở cốp xe,khiêng xuống một pho tượng quan âm nữa,giống y hệt pho tượng nó vừa hiến chùanhưng nhỏ gấp ba lần.Thầng Vuông nói với Sư Thầy Huyền Thông,Thầy nhập ngài vào bước này để con manglên điện nhà thờ.Sư thầy Huyền Thông giật thót người,ánh mắt hoảng loạn không gì tả riết.Thầy dùng mình một cái như tách hồn khỏi sát rồi cúi gập đầu.Cảm giác thầy đang tích tụ đạo Pháp để biến mình khỏi dương gian.Lúc này sư thầy Huyền Thông mới chậm rãi san ánh nhìn sang khuôn mặt nhữngthịt là thịt của thằng Vuông,rồi bu một câu sắc gọt.Cái tâm của tín chủ đang động rồi.Thiện tai,thiện tai.Sư thầy thỉnh hồi chuông,giập đầu ba lần trước bức tượng quan âm lớn,rồi khoan thai,quén vạt áo chàng,lùi và tỉnh thất.Thằng Vuông khóc ré lên như cha chết,Nó hướng mặt về tam bào,dập đầu tựa tế sao,bán bổ.Mọi người chẳng ai nói với ai,nhất loạt đứng dậy ra về.Cha tôi vẫn ngồi im ở góc vườn chùa,chứng kiến từ đầu đến cuối sự việc.Trên chán ông quẩn quả những nếp nhăn,nếp nào ứng với sự ăn ăn hối lỗi thời tráng niên, Bởi tráng niên,nếp nào ân hận thương vợ,Giận trách anh đất không tu,không chịu thành người.Nếp nào mông lung những ngày ít ỏi,Phận mình còn lại,còn nếp nào mới.Năm ấy sau đám rỗ mẹ tôi,cha tôi bị dính càm.Cơn gió độc vào cái thắng chạp rét mứt,Khiến ông kiệt sức mà cấm khẩu.Đúng vào ngày mùng một,dân làng vượt ông đi bệnh viện.Người thân chẳng còn ai,làng phải cắt cửa nhau xuống trong non cha tôi.Một tháng rưỡi sau,cha mới bình phục.Khi bước chân ra chùa,cha nhìn quay quát một lượt.Sân chùa vẫn dở bóng cây muỗng già,giếng chùa lặng nước váng ánh chiều tả.Cháu đồng,thứa của chùa thân thuộc gắn bó với cháu mấy chục năm,không thấy đâu cả.Thay vào chỗ đặt chiếc ghế đầu cũ kỹ,giờ là một cái kẻ sơn son thiết vàng rực rỡ.Trên tọa uy nghi,chiếc chậu đồng to gấp ba lần chiếc cũ.Anh ánh,tre tre,ngạo nghẽ,sáng cả góc dân chùa.Xung quanh chậu,chạm nổi hình núi non sông nước,Những bội trúc quân tử la đà,Câu bé mực đồng gánh cùi,hầy mặt cười mãn nguyện.Và điều quan trọng là chính bên hông chậu,Có nhiều hình quà trám chạm nổi nối nhau.Trên mỗi hình có hai hàng chữ rõ mồn một,Nguyễn Đức Vuông,tín chủ,kính hiến.Các quả trám gắn thành vòng ở chỗ phình to nhất,trông xa như một thứ hoa văn.Cha nhìn thôi miên chiếc chậu đẹp,giận giữa răng kín khuôn mặt vạn vọ những nét nhân.Sự xúc phạm,lăng mạ.Nỗi trống rỗng của người bị mất cắt,sự khinh bề, trà đạp,chơ chẽn.Tất cả diễn tiến đồng thời rồn dập trong trí não và hiện hiện mồn một lên ánh mắt.Cha tôi chậm rãi,bước đến chiếc chậu đồng mới,dơ tay nhớt nó ra khỏi cái kệ sơn son,dịch cái kệ qua một bên,rồi ông ra góc vườn chùa,bê chiếc ghế đầu đang chỏng chơ cô đơn,đặt ngay ngắn đúng vào chỗ mọi khi.Tất cả việc làm của cha tôi chỉ có đàn chim sáo sậu đậu trên cây mùa muỗng chứng kiến.Đàn chim sáo sậukhông biết được con chó vá cũng đang núp ở cánh cổng chùa nín thở quan sát.Còn con chó vá lại không hay.Có ông Thới,bố đẻ ra thẳng vuông,đang nét người sát bờ tường bao quanh chùa,theo dõi từng động tác và sự biến đổi đến dị biệt,sắc mặt của ông bỏ giữa chùa.Lão kia,nếu lão còn đóng cầm nhà tôi thêm nữa,tôi sẽ gọi công an gô cổ lão đấy.Anh không trả chiếc chậu đồng,tôi sẽ ở đây không về nữa.Cuộc đời lão khốn khổ cùng chiếc chậu,mà lão không từ bỏ được nó sao?Từ trên gác hai ngôi nhà bốn tầng,cậu thanh niên béo núp miệng vắt vèo điếuthuốc quát vọng xuống.Trước cổng,ông già gầy gộ,quần áo nhầu nhĩ, mệt mỏi,đứng biếu tay vào nhữngthanh sắt ken dày.Cạnh ông là chiếc bao tài đựng vật gì tròn tròn,dịch xuống vài mét là lòng đường,người xe đi lại tấp nập.Phố phường nhộn nhạo,không hề chú ý.Đêm thành phố xuống nhanh,từng trùng đèn tỏa ánh sáng vàng và dòng người thưa dần.Cơn mưa rông ập đến,những bụng nước từ trên cao quạt xối xà.Ông lão vẫn ngồi co ro sát cánh cổng sắt.Cái lạnh thấm dần vào gan ruột ông.Các bạn vừa nghe chuyện ngắn gió đắng sân chùa của tác giả Phan Đình Minh.Sau đây là cảm nhận của biên tạp viên chương trình.Đức vua Phật Hoàng Trần Nhân Tông,ông Tổ Thiền Phái Trúc Lâm,Tùa Núi Yên Tử đã từngSơn bản vô Phật,duy tồn hồ tâm.Có nghĩa là trong núi vốn không có Phật,Phật chỉ có trong tâm.Chuyện ngắn do Đăng Sân Chùa cũng ít nhiều nói về điều này.Phật chính ở tâm,chứ trong chùa không có Phật.Đó là điều rất ràn dị,nhưng mấy ai đã hiểu hết.Người nào tự nhận chân ra Phật tính trong mình,ác sẽ sống thiện hơn,điều ác sẽ dần dần bị đầy lùi,không còn trốn đương thân.Nhân vật bỏ hoáng,người cha trong chuyện,lúc nào cũng cay cú thô bạo,khiến mọi người xa lánh.Nhưng quái oam thay,khi nhà tan cửa nát,vợ con chết thảm,sức cùng lực kiệt,lúc ấy ông ta mới dùng mình hối hận vì những việc ác của mình trước đây.Bõ Hoãn đã có lúc bán bồ Phật coi trời bằng vung.Bán bồ Phật chính là bán bồ và coi thường các thiện trong người mình.Chỉ khi cái chậu đồng mà bõ hoán lấy trộm năm xưa lại trở về trên giá cũ trước sân chùa,thì dường như cái thiện,cái tốt đẹp lại nầy mầm trong bõ hoán.Nhưng cuộc đời còn nhiều nặng nợ,bõ hoán đất tình ngộ,nhưng còn bao kẻ vẫn u mi.Đại gia Nguyễn Đức Vuông,một trọc phú thời nay,là bàn sao của bó hoáng.Gã cứ tưởng lắm tiền nhiều của,cứ vung tiền mặc sức cung tiến thì lọc xéo un un vào nhà.Nhưng đâu phải vậy.Cờ Phật tôn nghiêm và tử bi đến việc cung tiến đâu nề ít nhiều.Phật tại tâm nên cốt yếu ở tâm lòng thành.Và câu chuyện vẫn chưa thể khép lại một cách có hậu.Cuộc đấu tranh giữa thiện ác tốt đẹp xấu xa trong bàn ngã vẫn âm thầm tiếp diễn.Có chuyện không mới,lối viết đồng hiện qua lối kẻ thâm trầm nặng về bọc bạch mang nhiều tâm tư.Tuy dè già gian trải,những tác phẩm gửi gắm khá nhiều ưu tư rằn vặt kếp người để làm sao không còn gió đắng trong những tâm hồn què quạt như Bõ Hoán ngày xưa hay Nguyễn Đức Vương thời nay.Mà là gió lành cho mỗi tâm hồn,mỗi cuộc đời.