Khai ngọn đuốc từ-bi chí thiện,
Tìm con lành dắt lại Phật đường.
Thương dân hiền giáo đạo Nam-phương,
Đặng chỉ ngõ làm lành lánh dữ.
Sách Thánh đạo ghi trong Tam-Tự,
Người mới sanh tánh thiện Trời dành.
Bởi lớn lên tập nhiễm lợi danh,
Nên tật xấu che mờ thiện-tánh.
Thiếu giáo-dục thiếu thêm đức-hạnh,
10. Ta quyết lòng nhắc lại tánh xưa.
Mặc tình đời gièm-siểm ghét ưa,
Rừng kinh-kệ ít người hay chữ.
Quá mắc-mỏ bởi chưng Phạn-ngữ,
Nên người đời khó kiếm cho ra.
Mõ chuông bày đọc tụng ó la,
Chớ hiếm kẻ tường thông nghĩa-lý.
*** trước mắt thấy điều hồ-mị,
Nên động tình bác-ái dạy răn.
Réo những ai lợi dụng làm xằng,
20. Cho suy-sụp chơn-nhơn mờ-mịt.
Nào có khác mây đen phủ bít,
Rồi dắt nhau đến chỗ dại ngây.
Lấy tinh-thần hiệp vén ngút mây,
Trong bổn-đạo tự thân phải xử.
Xuống dương thế dạo trong lê-thứ,
Thấy bá-gia gặp lúc não-nùng.
Cảnh trần-gian nhiều nỗi lao-lung,
Việc tu tỉnh ít người hiểu lý.
Trong bá tánh muốn nơi cao quí,
30. Phải truy tầm huyền-bí nơi cơ.
Từ sấm kinh cho đến thi thơ,
Trong chốn ấy nhiều nơi trọng yếu.
Tạo làm chi những trung với hiếu !
Ấy là người bổn-phận phải trau.
Khuyên dương-trần đừng nệ cần-lao,
Cũng rán sửa rán trau nền Đạo.
Tu đầu tóc không cần phải cạo,
Miễn cho rồi cái đạo làm người.
Kể từ nay lỡ khóc lỡ cười,
40. Vì buồn bực thấy đời biến chuyển.
Các chư Phật từ đây lựa tuyển,
Coi ai là đức-hạnh hiền-từ.
Lời sách xưa cận thủy tri ngư,
Cận sơn lãnh trần-gian tri điểu.
Trong sấm-giảng nếu ai không hiểu,
Tầm kệ này Ta chỉ nẻo đường.
Quyết dạy trần nên nói lời thường,
Cho sanh chúng đời nay dễ biết.
Trời dông gió sái mùa sái tiết,
50. Nắng cùng mưa cũng khác xưa rồi.
Khuyên dương-gian bỏ các việc tồi,
Đặng lo liệu cho tròn phận-sự.
Thấy trần thế hãy còn lưỡng-lự,
Muốn tu mà còn hỡi chần-chờ.
Việc thế-gian như thể cuộc cờ,
Thắng với thối một hai nước tướng.
Nào Ai có gạt dân nói bướng,
Mà dương-trần liệu lượng chánh tà.
Ta mến yêu những kẻ thiệt-thà,
60. Nghe cơ-giảng thiết-tha lo-liệu.
Học đạo-lý như đờn trúng điệu,
Hoà bản rồi thì cứ làm theo.
Lũ Tam-Bành trong bụng còn đeo,
Đoàn Lục-tặc ta mau sớm giết.
Mài gươm trí cho tinh cho khiết,
Dứt tâm trần kiếm chữ sắc không.
Đức Di-Đà Phật-Tổ ngóng trông,
Chờ dân-chúng tìm nơi diệt khổ.
Theo Phật-Giáo từ kim chí cổ,
70. Gốc ông cha ta cũng tu-hành.
Mà ngày nay cứ mãi tranh giành,
Danh với lợi, của tiền, quyền tước.
Thấy trần-thế ai ai cũng ước,
Đời sao không tới phứt cho rồi.
Nay khổ lao khó đứng khôn ngồi,
Lúc đói cơm buồn lòng ngơ ngẩn.
Làm ác đức nhiều điều quanh quẩn,
Như gà cồ ăn bẩn cối xay.
Thấy người hiền nói đắng nói cay,
80. Sau mới biết thân ai lao khổ.
Nhớ thuở trước oai-linh Phật-Tổ,
Phép thần-thông trừ lũ Ma-Vương.
Chốn rừng tòng ngồi chịu nắng sương,
Tìm đạo-lý hiến cho trần-thế.
Hiệu Lão-Sĩ ra đời thật-tế,
Đem lời vàng dạy-dỗ dương-trần.
Khuyên chúng-sanh khuya sớm chuyên-cần,
Tìm nguồn-cội diệt-trừ Tứ Khổ.
Bịnh với Tử từ kim chí cổ,
90. Sanh với Già hai chữ hoài-hoài.
Đức Thích-Ca xưa ở lầu đài,
Nghiệm Tứ-Khổ nên Ngài tầm Đạo.
Lo tu tỉnh mặc ai khinh-ngạo,
Diệt Lục-Căn đừng nhiễm Lục-Trần.
Chữ Sắc-Thinh chớ có hầu gần,
Hương với Vị xác trần nên lánh.
Chữ Xúc-Pháp treo gương Hiền Thánh,
Tránh Sáu Đường cũng đặng về Thần.
Từ xưa nay dạy chỉ nhiều lần,
100. Mà lê-thứ không lo chẳng liệu.
Nhãn thấy sắc thường hay bận-bịu,
Tai ưa nghe những điệu âm thinh.
Mắt với tai đều chọn đẹp xinh,
Còn lỗ mũi ưa mùi êm dịu.
Đồ thơm tho nó ưa nó chịu,
Chốn xạ hương hay lết lại gần.
Lư