Gươm trí-huệ từ-bi chớp nhoáng,
Bóng quang-âm ngày tháng dập-dồn.
Ta thừa vưng sắc lịnh Thế-Tôn,
Khắp hạ-giái truyền khai đạo-pháp.
Tùy phong-hóa dân-sanh phù-hạp,
Chấp bút thần tả ít bổn kinh.
Bởi luật trời mở rộng thinh-thinh,
Tri phong-võ bất kỳ chuyển kiếp.
Giống Hồng-Lạc kim chi ngọc diệp,
Nay đổi dời nhiều sự thấp hèn.
Từ ngàn xưa Phật-pháp gài then,
Nên ít kẻ tu hành đắc Đạo.
Ta cũng tỏ đôi lời khờ khạo,
Ngắm cảnh đời tâm não bắt cuồng.
Hiệu Điên Khùng ban rải dư muôn,
Khùng đạo-đức Khùng câu tuyệt-diệu.
Khùng toán biết âm-dương kết-liễu,
Khùng huyền-cơ Khùng Đạo Thích-Ca.
Huơi bút thần dẹp lũ cáo-xà,
Loài độc-địa toan trừ dứt nọc.
Noi tục cổ xác Khùng để tóc,
Phải đua chen tập tánh ông cha.
Mong dương-trần tỉnh giấc Nam-Kha,
Trừ vật-dục trì chơn bất hoại.
Cặp mắt Thánh dòm xem tứ hải,
Thương hồng-trần mượn xác tái sanh.
Bởi vì đời văn-vật cạnh-tranh,
Nên cấu xé cùng nhau thảm-não.
Sá chi kẻ ngu si khinh-ngạo,
Vì trên đời nhiều hạng khác nhau.
Đấng trung-thần dạ ngọc ước-ao,
Người bội phản ghét-vơ đạo-lý.
Khùng cảm mến truyền câu hồi vị,
Thà làm hiền mà biết non sông.
Điên như ta Điên giống Tiên Rồng,
Điên gở ách xích-xiềng thế tục.
Chuông Linh-khứu ba hồi giục-thúc,
Đờn Lôi-âm khởi điệu êm tai.
Con lành duyên khá trở gót hài,
Điên quyết chí dắt người lánh tục.
Đạo mở cửa bày câu minh mục,
Nước ma-ha tưới tắt lòng phàm.
Cõi Trung-Ương luân chuyển phương Nam,
Mở hội Thánh chọn người trung hiếu.
Tử vì nước còn ghi linh miếu, (1)
Thác vì đời thanh-sử danh bia.
Mũ cánh chuồn, đai giáp, mang hia,
Tuy thô-kịch mà tâm chánh-trực.
Nước văn-minh chê đồ ấy nực,
Mảng trau-tria xác thịt thanh bai.
Cảnh dương-trần khó sánh Bồng-Lai,
Về Tiên cảnh say mùi rượu Thánh.
Chén quỳnh tương gác đều gai ngạnh,
Vui tinh-thần bày biện cuộc cờ.
Khi thừa nhàn trổi giọng ngâm thơ,
Bày thi phú than qua thời thế.
Xuống dương-gian thân Điên nào nệ,
Chốn hồng trần đuốc huệ liền khai.
Cho nam-nhi sửa mặt râu mày,
Hàng phụ-nữ giồi câu trinh-liệt.
Rán bắt chước những trang tuấn-kiệt,
Gái anh hùng xưa có Trưng-Vương.
Đuổi quân Tàu cứu vớt quê-hương,(2)
Rửa xong hận thù chồng dốc trả.
Xưa Châu-Xáng thanh long phải tá,
Ngăn Sư-Đồ đặng cứu Ngũ-Viên.
Nói cho đời rõ biết Khùng Điên,
Điên vận bĩ điên câu ái quốc.
Viết một ngọn lưỡi nầy một tấc,
Đem Đạo lành ban rải nơi nơi.
Mảng chờ trông bá tánh thảnh-thơi,
Khắp bốn biển liên dây hòa-hảo.
Rừng bác-ái điên đời biến ảo,
Điên như ta vì Đạo vì dân.
Điên tu cầu Quân thánh rải ân,
Cho bốn biển dân lành được hưởng.
Điên dẹp gác âm thinh sắc tướng.
Tầm vô vi kiếm cảnh Niết-Bàn.
Thuyền từ-bi thẳng cánh lướt sang,
Qua Đông-độ vớt người hữu đức.
Bể ái hà gươm linh sớm dứt,
Lòng bồ-đề sắt đá dám kình.
Cả tiếng kêu lớn nhỏ đệ-huynh,
Noi chí ấy sửa-sang thời-thế.
Trời quá buổi chinh chinh vừa xế,
Chờ ít lâu cũng lặn về Tây.
Lúc huỳnh-hôn đèn trí soi đầy
Tìm nẻo thẳng đi về Cực-Lạc.
Điên đàm luận ít câu dốt nát,
Mong chị anh bàn-bạc thể-nào?
Lời văn thô ý-kiến chẳng cao,
Nội quang-cảnh tâm vô kỳ vật.
Đường đạo-đức bước đi từ nấc,
Ngoại quan hình bất chấp kỳ hình.
Phải bền lòng chặt nẻo sắt đinh,
Rán kiếm chữ bất sanh bất diệt.
Chúng-sanh mê nên đem pháp thuyết,
Giải thoát rồi pháp bất khả dùng.
Nương gia-đình kính trọng cội thung,
Lo nưng đỡ trong ngày tuổi hạc,
Thân Điên Khùng thế-gian tạm xác,
Chén rượu nồng chẳng nếm mà say.
Say lê-mê lết-mết tối ngày,
Say đạo pháp say mùi hương khói.
Biết chừng nào chúng-sanh vượt khỏi.
Bể ái hà rứt bỏ vẹn lau.
Say như xưa nhằm lúc Huỳnh-Bào,
Trần-Di ngủ say câu